Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục Đại học ở Việt Nam. I. Thực trạng giáo dục Đại học hiện nay Sự phát triển kinh tế ở Đông Á và Đông Nam Á đã cho thấy quan hệ mật thiết giữa phát triển và giáo dục ĐH - CĐ. Cho dù trong các nước và vùng lãnh thổ thịnh vượng nhất ở khu vực – Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, và gần đây là Trung Quốc - mỗi nơi đều đi theo những con đường phát triển độc đáo, nhưng điểm chung trong thành công của họ là sự theo đuổi nhất quán một nền khoa học và giáo dục ĐH – CĐ chất lượng cao. Việt Nam không có một trường đại học nào có chất lượng được công nhận. Các cơ sở giáo dục Đại học Cao đẳng Việt Nam không có tên trong bất kỳ danh sách nào, trong danh sách các trường đại học hàng đầu ở châu Á. Về phương diện này thì Việt Nam khác xa với cả những nước Đông Nam Á khác, hầu hết các nước này đều có thể kiêu hãnh về ít nhất một vài cơ sở có đẳng cấp. Các trường đại học Việt Nam phần lớn bị cô lập khỏi các dòng chảy kiến thức quốc tế. Các trường đại học Việt Nam chưa sản sinh được lực lượng lao động có trình độ như đòi hỏi của nền kinh tế và xã hội Việt Nam. Các cuộc điều tra cho thấy khoảng 50% sinh viên tốt nghiệp đại học ở Việt Nam không tìm được việc làm đúng chuyên môn, một bằng chứng cho thấy sự thiếu liên kết nghiêm trọng giữa giảng dạy và nhu cầu của thị trường. Với hơn 25% chương trình học ở đại học là dành cho các môn bắt buộc quá nặng về tuyên truyền chính trị, không phải băn khoăn nhiều về việc sinh viên Việt Nam được trang bị rất kém cho cả việc đi làm lẫn việc đi du học. Có thể lấy việc Intel tìm cách thuê tuyển kỹ sư cho cơ sở sản xuất của họ ở thành phố HCM làm ví dụ minh hoạ. Khi công ty này thực hiện một cuộc kiểm tra đánh giá theo tiêu chuẩn với 2.000 sinh viên CNTT Việt Nam, chỉ có 90 ứng cử viên, nghĩa là 5%, vượt qua cuộc kiểm tra, và trong nhóm này, chỉ có 40 người có đủ trình độ tiếng Anh đạt yêu cầu tuyển dụng. Intel xác nhận rằng đây là kết quả tệ nhất mà họ từng gặp ở những nước mà họ đầu tư. II. Nguyên nhân Điểm xuất phát giáo dục thấp. Do hậu quả của lịch sử để lại. Đất nước vừa thoát khỏi các cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước. Không đủ tiềm lực kinh tế cũng như năng lực tri thức để đầu tư, phát triển giáo dục đào tạo. Trình độ quản lý giáo dục chưa xứng tầm. Điều này cũng rất dễ hiếu, do hậu quả của các cuộc chiến tranh nên mọi tiềm lực của quốc gia đều đầu tư vào nó còn chưa đủ lấy đâu đầu tư cho giáo dục. Sau ngày hoà bình lập lại các nhà quân sự chính trị lại quản lý đất nước. Họ luôn tự hào, mãn nguyện trước thành công to lớn thành quả tuyệt vời trong quá khứ hào hùng oanh liệt. Đây là tất yếu, họ đáng được như thế, nhưng trong thực tế thì chưa phù hợp với điều kiện mới của đất nước. Chưa đáp ứng được nhu cầu xã hội, mà đội ngũ thay thế, kế thừa chưa đủ hay chưa có cơ hội để thay thế. Khả năng quản lý giáo dục chưa đáp ứng nhu cầu hiện nay là điều hiển nhiên. Nhưng đó lại là rào cản lớn nhất cho sự phát triển của xã hội. Nguyên nhân trực tiếp nhất của cuộc khủng hoảng ngày nay là sự thất bại ngiêm trọng trong quản lý. - Các cơ sở học thuật ở Việt Nam vẫn chịu một hệ thống quản lý tập trung hoá cao độ. Chịu sự quản lý, chỉ đạo từ trên. Thiếu tính tự chủ trong khâu quản lý, sáng tạo trong vận hành. Ngay cả những quyết định mang tính thiết yếu đối với việc vận hành một trường đại học như việc lập khoa cũng do hệ thống quản lý tập trung hoá này kiểm soát. Hệ thống này hoàn toàn không khuyến khích các trường và học viện cạnh tranh hay đổi mới. - Chế độ thù lao đãi ngộ chưa xứng tầm, kỹ luật chưa nghiêm khắc, đánh giá không thực tế thiếu công bằng, dựa vào các báo cáo thành tích thiếu tính trung thực… vì vậy không kích thích, phát huy và chưa tận dụng hết năng lực của đội ngũ giáo viên, giảng viên đôi khi còn bị hiện tượng “chảy máu chất xám”. Các hệ thống nhân sự đại học đều mù mờ và việc bổ nhiệm thường dựa trên những tiêu chuẩn phi học thuật như thâm niên, lý lịch gia đình và chính trị, và các mối quan hệ cá nhân. - Tham nhũng lan tràn và việc mua bán bằng cấp, học hàm, học vị là rất phổ biến. Các cấp quản lý xu hướng chưa chấp nhận thực tài của tuổi trẽ. Hay có chấp nhận đi chăng thì cũng ở trạng thái e dè, lo sợ, sợ một ngày bị mất ghế do chúng nó giỏi hơn ta. Trong không ít trường hợp không mặn mà với các đồng nghiệp trẻ được đào tạo ở phương Tây. - Tư tưởng quản lý hướng nội bất hướng ngoại, ngại giao tiếp thật ra là do thiếu trình độ ngoại ngữ chứng nhận thì có chất lượng thì không … các cơ sở học thuật ở Việt Nam thiếu những mối liên hệ quốc tế có ý nghĩa. Trên thực tế, các học giả trẻ được đào tạo ở nước ngoài thường xuyên lấy lý do để tránh làm việc trong các cơ sở học thuật ở Việt Nam là họ lo sợ không thể gắn bó với lĩnh vực của mình.
|